Kỷ
Niệm Vui Buồn
Trong
Thời Chinh Chiến
"
Kiếp Sống: Một chuỗi dài sầu tủi"
"Vui
là bao, chỉ luống những ưu phiền"
Vài
lời mở đầu:
Thưa
quí vị, tôi nghĩ rằng những người sống
ngoài đời dân sự hoặc trong quân đội,
đều bị ảnh hưởng của mấy mươi
năm chiến tranh điêu tàn do quân Cộng sản gây
ra. Đa số lứa tuổi của chúng ta
sanh trong thập niên 30 đều phuc vụ trong binh
nghiệp, nếu không lâu cũng dài hạn, đều có
nhiều kỷ niệm, riêng tôi nghĩ th́ buồn
nhiều hơn vui. Chúng ta c̣n thương tiếc những
đồng đội đă nằm xuống, và cũng c̣n
nhớ những kỷ niệm oanh liệt và hăi hùng.
Trong
bài viết nầy tôi xin kể những chuyện đă
xảy ra trong thời chinh chiến c̣n nhớ măi trong kư
ức, ngơ hầu những ai không có sống trong đời
lính cũng thông cảm được những gian khổ
của anh em chúng tôi. Tâm trạng của chúng tôi lúc
nầy là hay luyến nhớ một thời dĩ văng
của người lính già xa quê hương.
Tôi
xin ghi vài ḍng thơ để tưởng nhớ những
chiến sĩ của Quân Lực VNCH đă hi sinh trong
cuộc chiến bảo vệ chính nghĩa Tự Do:
Cựu chiến hữu Nguyễn Minh Châu
Tiếc
thương anh chết chiến trường
Đôi
khi mất cả dù là mảnh xương
Hay
anh trở lại quê nhà
Thân
trong ḥm gỗ phủ trên Quốc kỳ
Đớn
đau chua xót vô cùng
Hi
sinh cho lắm được ǵ đây thôi!
Giờ
đây nước mất nhà tan
Ai
c̣n ai mất cũng nhiều đắng cay
Trải
qua hai chục năm hơn
Vẫn
c̣n tiếc nhớ đến người chiến binh.
TN.
Chim
Sa Cá Lụy: Những Chuyện khó tin nhưng có thật.
Người
Việt Nam ḿnh hay nói hai hiện tượng nầy là
điềm rất xấu. Tôi không biết có đúng không
hay là sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng điềm
nầy đă mang đến cho tôi hai điều thật là
bất hạnh.
Lần
thứ nhứt, điềm xấu nầy làm ảnh hưởng
đời binh nghiệp của tôi : Vào giữa tháng 9 năm
1966 Chiến Đoàn B/TQLC do cựu Đại tá Hoàng Tích
Thông chỉ huy, hành quân ở vùng Ashau, Nam Khe Sanh. Lúc đó
tôi làm Tiểu Đoàn Phó TĐ3/TQLC cho cựu Đại
tá Nguyễn Năng Bảo (đang sống tại Nam Cali). Xe
Jeep của tôi chạy sau 3 xe GMC và dẫn đoàn xe
của Tiểu đoàn 3 đi trước Chiến Đoàn
trên Quốc lộ số 9,
th́nh ĺnh một con chim khá to bất thần nhào xuống
đâm đầu vào kiến xe Jeep của tôi, máu văng
tung tóe và con chim chết tốt. Hạ sĩ Ngọc là chú
tài xế, liền nói rằng: ông thầy ơi, xui
lắm đấy. Sau hai tuần hành quân vất vả trong vùng núi rừng hiểm trở, Chiến Đoàn
chấm dứt hành quân và đóng gần quốc lộ,
trên đường hướng về quận Cam lộ.
Quân Cộng sản pháo kích 82 ly vào nơi đóng quân
của Tiểu Đoàn 3, lần nầy tôi bị thương
rất nặng máu loang đầy người, và một
miểng đạn chỉ bằng hạt đậu
phọng chạm sau ót làm liệt bán thân phải.
Lần
thứ hai,
cũng điềm nầy làm ảnh hưởng cuộc
đời tuổi đă xế chiều: Vào khoảng
cuối tháng 5 năm 2000, trên đường tôi và vợ
tôi đi làm về, cũng một con chim từ đâu
đâm đầu vào kiến xe Honda, con chim bị thương,
vùng vẫy đôi cánh trên đầu xe rồi lảo
đảo bay đi. Sau đó hai tuần tôi bị Stroke,
lại trùng ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, ngày giỗ
của mẹ tôi. Lúc chiều ngày mới vào bịnh
viện Santa Clara Valley Medical Center, hai chân tôi bị giựt
vùng vẫy không khác nào con chim đă đâm vào xe tôi trước
đó hai tuần, sau cơn giựt toàn thân tôi bất
toại. Theo Y khoa giải thích: những người đă
bị thương xương sống khi bị đứt
mạch máu, hệ thống thần kinh bị xáo trộn nên
tay chân bị giựt như vậy. Hai hiện tượng
nầy làm tôi cứ bị ám ảnh khó quên.
Lúc
xưa khi bị thương liệt bán thân phải, tôi
bắt đầu chống gậy vừa mới 30 tuổi
ngoài, nhưng vẫn c̣n hành quân được, lúc lên
đèo khi lội suối. Năm 1968 lại bị thương
một lần nữa, suưt chết do viên đạn AK47
hiện c̣n nằm trong phổi. Rồi bị tù đầy
ra Bắc sau 30/4/75, lúc trở về lại vượt biên
qua Mỹ, tiếp tục đi làm việc để
ổn định cuộc sống mới như bao nhiêu người
tỵ nạn khác. Tôi c̣n lái xe được, du lịch
đó đây được vào những lúc nghỉ hè,
nhưng
lúc nào cũng với cây
gậy. Nên tôi vui vẻ chấp nhận là tôi phải
gắn liền với nó hết suốt cuộc đời
c̣n lại. Nhưng bây giờ tới
từng tuổi nầy c̣n phải chập chững tập
đi trở lại, thật ngán quá!, lắm lúc buồn
chán tôi than với vợ tôi rằng nhớ lại lúc c̣n
chống gậy thật là
huy-hoàng.
Nên vợ tôi có vài vần thơ mộc mạc an ủi tôi:
![]() |
Nhớ
cây Gậy Chẳng
biết ai đặt tên là "GẬY" Nhưng
mi là bạn tốt của ta Theo
ta suốt ba mươi năm lẻ Vui
buồn sướng khổ chẳng rời nhau Mi
giúp ta vững bước đường dài Không
vấp ngă gập ghềnh cao thấp Ta
là lính, mi cũng là lính Băng
đèo, lội suối lúc hành quân Không
gian nan như lính chiến trường Mà
địa phương, vẫn nhiều nguy hiểm Rồi
những lúc tù đày Bắc Việt Trở
về, lại phải vượt trùng dương Nhưng
bù lại, giờ ta thư thả Mi
cùng ta dạo khắp mọi nơi Ta
vẫn tưởng suốt đời bậu bạn Nào
ngờ số kiếp phải xa mi GÂY
ơi! mi biết ta vẫn nhớ Và
ao ước ngày nào gặp lại Lưu
vong ta đă buồn nhiều lắm Mất
mi buồn hơn nữa Gậy ơi!. TN. |
Quân
Cộng sản khát máu đă gây ra chiến tranh tàn phá quê
hương ta, tàn phá cả con người, biết bao nhiêu
người phải thân tàn ma dại, và cuộc chiến
đă làm cho biết bao gia đ́nh phải điêu
linh.
Quê
hương Việt Nam triền miên đau khổ.
Nước
ta trải qua một ngàn năm đô hộ giặc Tàu,
một trăm năm đô hộ giặc Tây, giữa hai
thời kỳ đó là 45 năm chiến tranh huynh đệ
tương tàn kéo dài từ năm 1627 đến 1672
giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Quê hương
Việt Nam đă một lần bị phân ly lấy sông
Gianh làm biên giới Nam Bắc.
Nước
Việt Nam lại bị ch́m đắm trong Đệ
nhị Thế chiến kết thúc năm 1945. Đây là
lần đầu tiên trong đời, mới được
mười hai tuổi tôi đă được nếm mùi
khói lửa của chiến tranh. Tôi được dịp
nh́n thấy những trận không chiến hăi hùng giữa
phi cơ Đồng Minh và Nhựt Bản trên không
phận Saig̣n. Những tiếng bom nổ rền và
những tiếng súng pḥng không của quân Nhựt bắn
lên vang dội cả vùng trời làm dân chúng rất
khiếp sợ.
Rồi
kế tiếp đồng bào ruột thịt miền
Bắc bị nạn đói khủng khiếp đưa
đến hàng triệu người chết. Tiếp theo
sau là trận giặc Cộng sản khởi đầu
từ năm 1945 đến năm 1954. Hiệp Định
Génève được kư ngày 20 tháng 7 năm 1954 và quê hương
ta lại một lần nữa bị chia đôi từ vĩ
tuyến 17. Miền Bắc Cộng sản. Miền Nam
tự do.
Nhằm
mục đích có một Quân Đội thật hùng
mạnh để bảo vệ miền Nam Tự Do Dân
Chủ, nền Đệ I Cộng Ḥa của cố
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm bắt đầu gia tăng
chế độ quân dịch, và đào tạo thêm
nhiều sĩ quan tại hai trường Vơ Bị Đà
Lạt và trường sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức.
C̣n cấp Hạ sĩ quan và Binh sĩ th́ được huấn
luyện tại các trường Đồng Đế - Nha Trang,
Quang Trung, và
Lam Sơn - Huế vv.... Ngoài ra nhiều Sĩ quan và
Hạ sĩ quan cũng được sang Hoa Kỳ học
bổ túc đủ các ngành.
Yêu
mến Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến.
Đây
là thời gian tôi thích nhứt trong đời binh
nghiệp, mặc dù rất nhọc nhằn gian nan nguy
hiểm nhưng tôi cảm nhận được cái giá
trị và cuộc sống hào hùng của người lính
chiến. Tôi rất hănh diện chiến đấu bên
cạnh các chiến sĩ anh dũng của đơn
vị thiện chiến đă làm cho các Sư đoàn
Cộng sản Bắc Việt phải nể sợ và
biết danh Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam, một
trong những Binh chủng thiện chiến của QLVNCH.
Nhưng,
thời gian tung hoành nay đây mai đó, mà tôi rất thích,
của đời binh nghiệp tôi quá ngắn ngủi. Tôi
không được hân hạnh tham gia những trận
đánh qui mô hơn, như các Niên trưởng và các
Chiến hữu đă lâm trận vào những năm
cuối cùng trước khi miền Nam bị thất
thủ. V́ sau ba hơn năm ở Binh chủng, tôi bị
tàn phế nên phải rời Tiểu Đoàn 3 TQLC trong
sự mến thương và luyến tiếc từ
Tiểu Đoàn trưởng đến Sĩ quan, Hạ sĩ
quan và Binh sĩ của tôi, và ngược lại tôi cũng
yêu mến họ v́ chúng tôi đă từng chia xẻ
những vui buồn và cùng anh em vào sanh ra tử trên
khắp các chiến trường.
Tưởng
nhớ Đại bàng Nguyễn Thành Yên và Niên trưởng
Nguyễn Thế Lương.
Ngay
từ ngày đầu mới về Tiểu đoàn 3 TQLC tôi
đă theo bước chân của hai Ông nầy trên
khắp bốn Vùng Chiến Thuật, khởi đầu
từ cuộc hành quân B́nh
định ở G̣ công. Tôi học hỏi nơi hai Ông
nầy rất nhiều trong những trận chiến
chạm trán với địch quân từ cấp Đại
đội đến cấp Trung Đoàn của chúng.
Tôi
rất yêu mến và kính nể cố Đại tá
Nguyễn Thành Yên, Tư lệnh phó kiêm Chiến đoàn
trưởng TQLC. Ông quyết định rất nhanh
nhẹn khi đụng trận, nhưng rất nóng tính
mỗi khi những yêu cầu yểm trợ hỏa pháo
hoặc không quân chậm trễ cho các Tiểu đoàn dưới
sự điều động của Ông. Tôi nghĩ
Ông nóng nảy khi lâm trận chỉ v́ Ông yêu thương
chiến sĩ và muốn bảo toàn sanh mạng của
họ. Ông có biệt danh là ÔNG GIÀ HỰ v́ mỗi khi Ông
giận lên Ông hay HỰ... HỰ... Sau khi tôi rời Binh
chủng một thời gian, Ông cũng giải ngũ và
trở về cuộc sống dân sự tuy an nhàn nhưng
không được thoải mái lắm v́
tánh cương trực và thanh liêm. Chúng tôi có
mời Ông dùng cơm cùng gia đ́nh hai lần tại nhà
ở quận Dĩ An và sau đó chúng tôi đau buồn
hay tin Ông bị tử nạn ở miền Tây.
Tôi
cũng rất thương tiếc cố Đại tá
Nguyễn Thế Lương, vị Tiểu Đoàn trưởng
TĐ3 của tôi năm 1965 và cũng là bạn cùng khóa 5
Sĩ quan Trừ bị
Thủ Đức. Năm 1972, Ông là một trong những
Lữ đoàn trưởng/TQLC đă dự trận đánh
tái chiếm Cổ thành Quảng trị. Ông là cấp
Chỉ huy rất kỹ lưỡng nhiều kinh nghiệm,
trước khi xuất quân, Ông nghiên cứu địa h́nh
địa vật và ra lịnh tỷ mỹ kế
hoạch tiến quân cho từ cấp Đại đội,
cho nên chúng tôi rất tin tưởng nơi Ông trong
mọi hoàn cảnh của chiến trường. Đại
tá Lương có bản tánh hiền lành dễ mến,
mỗi khi có một chiến hữu phạm lỗi lầm
ǵ, Ông gọi tŕnh diện để chấn chỉnh
với những lời lẽ nhẹ nhàng, như một người
anh dạy bảo em. Ông không bao giờ
hống hách hay gắt gỏng với thuộc
cấp. C̣n một đặc điểm về đời
tư của Ông là Đại tá Lương rất thích
uống Café đen và thuốc lá, Ông ăn th́ rất ít mà
đi hành quân băng đèo lội suối dẻo dai vô cùng.
Tôi
gặp Đại tá Lương lần sau cùng vào cuối
năm 1977,
khi toán tù lao
động của Ông đi ngang qua trại tôi ở Yên Bái,
Bắc Việt. Ông chỉ có đủ th́ giờ hỏi
tôi một câu vội vă rằng: "Châu có khỏe
không?" Chúng
tôi nh́n nhau với sự mừng rỡ v́ biết
được là chúng tôi c̣n sống, nhưng tôi biết
Ông cũng như tôi rất nghẹn ngào uất hận khi
tôi nh́n qua ánh mắt Ông. Khi hay tin Đại tá Lương
qua Mỹ theo diện HO, tôi thỉnh thoảng điện
thoại thăm, nghe giọng nói biết là Ông già yếu
theo tuổi, nhưng mới đây nh́n thấy chân dung Ông
qua tấm ảnh ḷng tôi cảm thấy xót xa v́ không
ngờ Ông tiều tụy
đến nỗi nầy, đây là hậu quả của
những năm lao tù Cộng Sản.
Bây giờ Đại tá Lương đă ra đi vĩnh
viễn nhưng tôi nghĩ Ông
cũng yên phận nơi Chín suối v́ dù sao đi
nữa, Ông cũng hít được những hơi
thở, không khí tự do, và nhân quyền nơi quê hương
xa lạ nầy. Thay mặt gia đ́nh, tôi kính cẩn chào
vĩnh biệt Đại tá và xin tặng Ông mấy câu
thơ:
Gẫm
thân xa xứ lạc loài
Buồn
nhiều vui ít ôi đời ly hương!
Gẫm
thân chẳng khác chi chim
Bay quanh khắp chốn t́m nơi đất lành.
TN
Tiểu
Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lên đường hành
quân. Cảnh vợ con tiễn đưa chồng.
Một
đi là quyết chiến đấu,
Một
đi là quyết chiến thắng,
Đoàn
Mủ Xanh đánh đâu là tan quân thù,
Ngày
về ṿng hoa đón chào chiến sĩ "MŨ XANH".
Đây
là những câu hát trong bài
TQLC Hành khúc mà các anh em chiến sĩ
hay hát vang lên, khi đoàn xe
GMC bắt đầu lăn bánh rời Hậu cứ
Tiểu Đoàn đến phi trường để bay ra
vùng hành quân. Quang cảnh thật là hùng tráng của đoàn
quân thiện chiến, đầu đội nón sắt vai
đeo ballot , trang bị súng đạn quân dụng đầy
đủ, với hàng chục chiếc xe GMC nổ máy
rần rộ ở sân cờ Tiểu đoàn. Tôi c̣n
nhớ mỗi lần đơn vị tập hợp lên
đường, một số vợ con các chiến sĩ
từ trại gia binh lũ lượt đến đứng
chờ sẵn nơi sân cờ để tiễn đưa
chồng. Thoáng nh́n các bà và vợ con ḿnh, tôi không
khỏi ngậm ngùi v́ thấy các bà vẫy tay đưa
chồng lên đường hành quân, nhưng nhiều bà
không dấu được nỗi lo âu, tuy miệng cười
mà nước mắt rưng rưng chảy.
Họ hy vọng chồng ḿnh sẽ mang về những huy
chương chiến thắng hay được thăng
cấp với những chiến công hiển hách, nhưng tôi
nghĩ ḷng họ cũng không khỏi băn khoăn lo
lắng v́ không biết trong chuyến đi nầy ai
sẽ về sớm trong
những chiếc ḥm gỗ trên phủ lá Quốc kỳ?
Môi
trường sống của ngưới lính chiến là
những băi chiến trường, họ quen thuộc
những tiếng đại bác, bom nổ vang rền và
những tiếng súng chát chúa. Họ can đảm
nhận lấy sự rủi may ở chiến trường,
nhưng họ không khỏi mủi ḷng rơi nước
mắt mỗi khi nh́n thấy bạn đồng đội
ngă xuống. Cho nên :
Những
khi gối súng đầu nằm,
Tai
nghe tiếng gáy côn trùng nỉ non,
Những
khi nằm giữa đồi cao,
Trăng
soi vằng vặc ḷng buồn ngổn ngang...
TN.
Những
lúc dừng quân đêm, mệt mỏi sau trận chiến
vừa tàn, người chiến binh cảm thấy nhớ
vợ thương con, nhưng họ chấp nhận:
Đời
người chiến sĩ nhọc nhằn
Dấu
t́nh riêng rẽ trọn cùng nước non
Tuy
nhiên cũng lúc chạnh ḷng
Thương
người vợ trẻ cô pḥng lẻ loi...
TN.
Các
bà vợ chiến sĩ ở
hậu phương là những người rất đáng
được vinh danh, họ sống trong hồi hộp âu
lo cho chồng ngoài chiến trường và phải một
ḿnh nuôi con và phụng dưỡng mẹ cha thay chồng.
Và chỉ có người bạn đời chịu khổ
cực đỡ đần ta mỗi khi chúng ta ngă
xuống, vợ chăm sóc chồng đến khi lành
mạnh rồi lại tiếp tục
lên đường. Bao nhiêu lần chúng ta ngă
xuống là bấy nhiêu lần các bà chịu đắng
cay đớn đau tinh thần c̣n hơn chúng ta bị
đau đớn thể xác.
Chúng
ta được thưởng tặng huy chương hay thăng
cấp mỗi khi chúng ta lập được chiến công,
nhưng những sự hy sinh vô bờ bến của
mấy bà nào có ai trao thưởng cho họ ǵ đâu?
Khi các anh chiến sĩ đền nợ nước, các bà
lănh cái hậu quả mẹ
góa con côi. Nhưng nếu
đất nước c̣n, mẹ con chiến sĩ c̣n
được trợ cấp của chánh phủ giúp đỡ
phần nào cho cuộc sống. Bây giờ đất
nước mất là mất tất cả, những người
bị bỏ lại c̣n bị chế độ Cộng
sản ngược đăi, thật là đau xót!
Cuộc
chiến gia tăng từ đầu năm 1965.
Chiến
trường miền Nam Việt Nam bắt đầu gia tăng
từ đầu năm 1965, bọn Cộng sản đă
cho xâm nhập và tung các trận đánh cấp Trung đoàn
hoặc cao hơn. Khởi đầu là trận B́nh
Giả ở Vùng III Chiến thuật với Tiểu đoàn
4/ TQLC và tiếp đến là trận Pleime ở Vùng II Chiến
thuật.
Tiểu
đoàn 3 TQLC đang hành quân tại đảo Phú quốc
được cấp tốc không vận về tiếp
viện cho TĐ4 TQLC tại B́nh Giả và hành quân truy kích
tiêu diệt địch tại vùng Xuyên Mộc, Long
Lể, Bà Rịa. Xong lại được không vận ra
Vùng II Chiến thuật để
giải tỏa áp lực của Sư đoàn 3 Sao vàng
Cộng sản Bắc Việt đang uy hiếp các
quận Bồng Sơn, Tam Quan, An Lăo, Phù Cát, Phù Mỹ
vv...thuộc tỉnh B́nh Định. Nơi đây Đại
tá Nguyễn Thành Yên chỉ huy Chiến đoàn TQLC đă
làm cho Sư đoàn Sao vàng bị tổn thất nặng
nề qua các trận đánh ở Đồi 10 đèo B́nh
Đê, trận đánh Phụng Dư ở Tam Quan và
trận đánh Chợ Bộng ở Bồng Sơn, vv...
Sau đó chúng tôi được về Saigon dương quân
một thời gian ngắn lại được không
vận ra hành quân tại Đà Nẵng, Quảng Nam và
Quảng Ngăi.
Trận
đánh Ba gia, Quảng Ngăi và Chuyện hai Cô gái làng Sơn
Châu.
Vào
giữa năm 1965 Sư đoàn 3 Sao vàng BV dùng quân số
đông đảo uy hiếp đánh úp đồn Ba Gia,
Quảng Ngăi do một Đại đội Địa Phương
Quân trấn giữ. Tiểu
Đoàn 3 TQLC lại được không vận gấp
bằng phi cơ C130 từ Đà
Nẵng về phi trường Quảng Ngăi để hành
quân truy lùng diệt địch và giúp tái thiết đồn
Ba Gia.
Một
ngày sau khi đồn Ba Gia bị thất thủ, vào sáng
sớm TĐ 3/TQLC vượt tuyến xuất phát từ
phía Tây quận Sơn Tịnh tiến về làng Sơn Châu
với đội h́nh hàng ngang thật rộng. Vị
Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Nguyễn
Thế Lương rất sáng suốt, ông đă tiên đoán
là đơn vị của Sư Đoàn Cộng sản có
thể áp dụng chiến thuật cổ hủ của chúng
là công đồn đả viện.
Ông ra lịnh cho tôi điều động 2 Đại
đội, ĐĐ1 do tôi chỉ huy kiêm Tiểu đoàn
phó, và ĐĐ2 vượt qua cánh đồng trống,
tiến dè dặt nhưng thật nhanh bám bờ làng.
Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, ĐĐ3 và ĐĐ4
trừ bị tiến tiếp theo, sau khi 2 Đại Đội
đầu chiếm được mục tiêu. Tôi nghĩ
địch quân không dám chiếm b́a làng v́ dễ bị
phi cơ và pháo binh tha hồ dập chúng, nên chúng
ẩn núp trong hầm hố bố trí trong làng để
phục kích chúng tôi.
Quả
đúng như vậy, đến khoảng 1 giờ trưa
Tiểu đoàn 3 tiếp tục lục soát phát hiện
đường giây điện thoại dọc từ hướng
Bắc xuống hướng Nam. Bị lộ kế
hoạch địch quân liền khai hỏa tấn công
cả ba cánh quân, giữa là TĐ3/TQLC, bên trái xa ngoài làng
là vùng hoạt động của Trung đoàn 51 BB biệt
lâp và xa bên phải là Tiểu đoàn 39 Biệt động
quân đều chạm súng, và địch dùng cối 82
ly, đại bác 57 pháo bừa băi vào làng bất kể
sanh mạng và nhà cửa của dân chúng. Tiểu đoàn
3 chúng tôi và các đơn vị bạn xin pháo binh yểm
trợ phản pháo. Địch quân đă phục sẵn,
cố mấy lần xung phong nhưng đều bị các
cấp chi huy từ Đại đội đến Trung
đội và Tiểu đội điều động
chiến sĩ TQLC anh dũng đánh bật trở lại.
Bọn chúng bị thiệt hại đáng kể về nhân
mạng và nhiều vũ khí bỏ lại bị ta tich thu.
ĐĐ1c̣n tịch thu được lệnh hành quân,
một sơ đồ và giấy tờ cá nhân của tên
Thượng tá Tham mưu trưởng của Trung đoàn
Sao vàng dính đầy vết máu, tôi nghĩ là tên nầy
đă chết, xác được bọn chúng lôi đi
vội vă để rớt tài liệu lại. Tôi vẫn
c̣n giữ măi cái khăn quàng cổ bằng vải dù
của tên Tham Mưu trưởng Cộng sản nầy làm
kỷ vật đến ngày cuối cùng bị mất nước.
Trận
chiến kéo dài đến tối đôi bên đều bám
lấy vị trí cố thủ, v́ lực lượng
địch ẩn núp dưới giao thông hào và hầm
hố rất kiên cố nên vị Tiểu đoàn trưởng
TĐ3 ra lệnh Tiểu đoàn giữ vững vị trí
pḥng thủ bên nầy
giao thông hào và chờ lệnh. Sáng hôm sau Tiểu đoàn
1 TQLC và Tiểu đoàn 5 Dù được không vận ra
Quảng Ngăi và trực thăng vận đến chiến
trường để tiếp tục truy diệt địch,
do sự chỉ huy tổng quát của Thiếu tá Soạn,
vị chỉ huy đă có nhiều chiến công và rất
trầm tĩnh ngoài chiến trường (sau ông lên
cấp Đại tá ). Lực
lượng địch bị tổn thất quá nặng
phải rút lui vào sâu trong núi phía Tây đồn Ba Gia.
Tổn thất của đơn vị ta không nặng
lắm.
Một
sự ân hận khó quên.
Trên
đường rút quân trở ra sau mấy ngày quần
thảo với lực lượng Cộng sản BV, trong
ḷng đang buồn bực thương tiếc những
chiến sĩ đă tử trận hoặc bị thương,
chúng tôi gặp một thiếu nữ tuổi khoảng 18
đứng bên hè nhà đổ nát ở đầu làng Sơn
Châu, cô thốt ra những lời trách mắng nặng
nề đoàn quân chúng tôi. Tôi liền dùng bản đồ
hành quân tát nhẹ vào má cô ấy để cho cô im
miệng đừng chửi rủa nữa. Sau đó
Hạ sĩ Hạnh toán biệt kích của tôi cho biết
rằng cô ấy đă điên mấy ngày nay, v́ quân
Cộng sản đă pháo bừa bải súng cối 82 và Đại
bác 57 ly vào làng cô làm cho em trai cô chết, mẹ bị thương
nặng và nhà bị đổ nát điêu tàn. Tôi cảm
thấy ân hận là đă có hành động sai lầm
mặc dù chỉ có một cái tát nhẹ, thật là thương
hại cho hoàn cảnh quá đớn đau của người
thiếu nữ ấy.
Thúy
đă đi rồi.
Đơn
vị chúng tôi tiếp tục lên đường, về
tới cuối làng Sơn Châu th́ được lệnh
dừng lại và đóng quân tại đây khoảng
một tuần. Ngôi làng nầy nho nhỏ nhưng cũng
xinh xinh, trước mặt làng là ao nước rất
trong cho dân làng xử dụng, có cây cầu ván nho nhỏ,
hằng ngày các thiếu nữ ra đấy để
giặt giũ. Bên cạnh ao nước là con lộ đất
hẹp nối liền đường lộ lớn đi
về quận Sơn Tịnh. Sau lưng làng là dăy đồi
Sim tím, quanh triền đồi là những ngôi mộ h́nh
tṛn, đây là kiểu xây của người miền
Trung. Nơi đây không có những đồi thông như
Đà lạt, nhưng cảnh cũng đẹp, nên thơ.
Một buổi chiều trời mờ tối, nh́n
những tấm bia mộ nhấp nhô trên lưng đồi,
rồi chợt nhớ tới bài ca ĐỒI THÔNG HAI
MỘ, ḷng tôi cảm thấy buồn buồn. Mỗi
lần hành quân qua những đồi Sim hoặc tạm
dừng quân nơi đây, các chiến sĩ tha hồ dùng
trái Sim ngọt dịu để giải khát, có những
anh vui tính ngắt cành hoa Sim cài lên nón sắt cho đẹp
và cũng để ngụy trang.
Hoa
Sim là hoa mà vợ tôi rất yêu thích, nên tôi hay ngắt
những đóa hoa Sim ép vào bào bản đồ hành quân
làm quà về tặng vợ. Những kỷ niệm
nầy tôi nhớ măi không bao giờ quên. Xin gởi quí
vị vài câu thơ gợi nhớ lại một thời hành
quân nơi đây:
Ngày
xưa lúc anh đi chinh chiến
Kể
chuyện rằng đồi núi hoa Sim
Hoa
Sim tím cài trên nón lính
Trái
Sim rừng lót dạ chiến binh
Đồi
Sim cũng là nơi anh ngủ
Lúc
đêm về thoang thoảng hoa Sim...
Hoa
Sim rừng nầy là một món quà gói ghém nhiều t́nh thương
của những người về từ miền hành quân,
mà đôi khi họ cũng sợ rằng
súng
gẫy nửa đường rồi quà sẽ không
về đến tay người thương yêu:
Hoa
Sim tím là quà của lính
Ngắt
một cành dành để tặng em
Tặng
em cả rừng đồi Sim tím
Để
nhớ anh những bước quân hành.
Và
hoa đó cũng ấm ḷng chinh phụ.
T.N.
Bộ
chỉ huy của chúng tôi đóng tại một ngôi nhà
gia đ́nh của một thiếu nữ c̣n trẻ, lúc
đầu cô ấy rất sợ hăi v́ cứ tưởng
chúng tôi là lính rằn-ri, hung-dữ. Nhưng chỉ qua
một vài câu thăm hỏi xă giao, cả gia đ́nh
của cô gái đă có cảm t́nh với anh em chúng tôi. Cô
nầy có nét đẹp dịu hiền của gái miền
quê, học lớp đệ Tứ rồi nghỉ hoc giúp
gia đ́nh. Đêm đêm cô hay nấu chè đậu đỏ
cho chúng tôi ăn, lúc ấy c̣n có Trung úy Lê Hữu Nghĩa
Đại đội phó ĐĐ1 sau đă giải ngũ
qua ngành Quan thuế, và Trung úy Đinh Long Thành lúc ấy là
Trung đội trưởng Trung đội 2 sau cùng là Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng
TQLC.
Cô
thiếu nữ nầy tuy người Quảng Ngăi nhưng
tiếng nói dễ nghe. Hằng đêm cô hay ngồi dưới
mái hiên chuyện tṛ với chúng tôi rất hồn nhiên
vui vẻ. Về tối,
những ánh hỏa châu chiếu chập chờn để
soi sáng nơi đóng quân, dưới ánh trăng khi
mờ khi tỏ, làm tăng thêm nét đẹp thơ
mộng của làng Sơn Châu.
Một hôm cô nói với ba anh em chúng tôi rằng các
ông Thủy Quân Lục Chiến sao có vẻ hào hoa phong nhă,
c̣n mấy anh du kích và bộ đội mặt mày đần
độn không thể ưa được.
Rồi
một đêm, cô có vẻ u-buồn nói với tôi rằng:
Vài ngày nữa em phải về quận Mộ Đức
nuôi bà ngoại bịnh nặng, không biết em c̣n
được gặp lại Đại úy và mấy ông
nữa không, thôi em cầu chúc Đại úy và đơn
vị luôn được an-lành. Nhưng
ngày hôm sau chúng tôi
lại được lệnh dời
địa điểm đóng quân, tôi từ giă cô và
gia đ́nh, một lần nữa với nét mặt u-buồn cô chúc tôi và đơn vị lên đường
b́nh yên.
Sau
đó, chúng tôi cảm thấy dường như
có một cái ǵ thiếu
vắng ở nơi căn
nhà mới tới này. Anh em chúng tôi ba đứa, Tôi, ông
Nghĩa, ông Thành, mặc dầu không ai nói với ai,
nhưng ai cũng có vẻ buồn buồn, chúng tôi
cảm thấy thiếu vắng cái khung cảnh gia đ́nh,
thiếu vắng những tiếng nói dịu hiền
của cô gái làng Sơn Châu bên những chén chè ngon
ngọt dễ thương, mà không biết đến bao
giờ mới đựơc gặp lại. Chúng tôi không
biết tên cô ấy là ǵ, mà chỉ biết gọi là cô
Hai, để sau đó ông Nghĩa
phải đặt tên cô là Thúy và mỗi lần ḷng
lâng lâng buồn ông thường
ngân nga hát “THÚY ƠI! THÚY ĐĂ ĐI RỒI”. Tôi hay
kể những chuyện vui buồn lúc hành quân cho vợ tôi
nghe nên vợ tôi làm bài thơ ngắn gọn tặng ba
anh em chúng tôi:
Cô
gái làng Sơn Châu
Anh
là lính chiến mũ xanh
Dừng
quân ngày ấy ở làng Sơn Châu
Gặp
em cô gái làng quê
Má
hồng, môi thắm thật là xinh xinh
Tuổi
em lúc ấy chắc là
Trăng
tṛn có lẻ, không đầy hai mươi
Em
thương lính chiến gian nan
Chén
chè em tặng, nhớ hoài mùi thơm
Đến
khi quân phải lên đường
Ai
ai cũng phải giă từ luyến lưu
Anh
buồn anh hát nghêu ngao
Thúy
ơi! em bỏ các anh đi rồi
Giờ
đây mấy chục năm hơn
Thúy
ơi! em ở nơi nào hỡi em?
T.N.
Đây
cũng là một trong những kỷ niệm vui của
đời lính chiến xa nhà. Nếu bây giờ chúng tôi có
gặp lại cô Thúy chắc cũng không nh́n ra, v́ nay
chắc nàng Thúy tóc cũng đă hoa râm không c̣n là Thúy ngây
thơ duyên dáng của Thúy ngày xưa nữa.
Lúc
tôi c̣n ở Tiểu đoàn 3 TQLC, tôi chỉ mới
vừa 30 tuổi ngoài. Ông Thành, ông Nghĩa cũng như
cựu Đại úy Nguyễn Kim Tiền, cố Đại
úy Vũ Mạnh Hùng, cố Trung úy Long, Trung úy Khanh, Lượng,
Giao, Kiều vv... c̣n trẻ độc thân, đánh
giặc rất hăng, giỏi, nhưng cũng văn
nghệ và vui tính lắm. Nên sau những cuộc hành quân,
Tiểu đoàn về Hậu trạm ở thành phố
nghỉ ngơi, th́ ôi thôi!, mấy ông nầy tha hồ
dung dăng dung dẻ bát phố, hết quán này đến
quán kia, chẳng khác nào những con Hổ được
thả về rừng. Chúng tôi là cấp đàn anh,
rất yêu mến và thông cảm họ, nên cũng dễ
dăi để những người em có những ngày
thoải mái rong chơi, v́ cuộc đời họ c̣n
quá trẻ, tận hưởng được những ǵ
họ có thể có được
trong tầm tay, bởi đâu biết ngày mai, sự
sống và sự chết
đâu có cách biệt bao xa?
Đây là những kỷ niệm mà không bao giờ
anh em chúng tôi quên.
Trận
Đánh Việt An Năm 1966. Chiến Thắng Lẫy
Lừng Của Chiến Đoàn B/TQLC Phục Thù Cho
Tiểu đoàn 3 Bị Phục Kích Năm 1965.
Tiểu đoàn 3 TQLC đang hành quân vùng Nam quận Tam
Kỳ tỉnh Quảng Tín và tạm dừng quân tại
đây vài ngày, lại được lệnh di chuyển
về tỉnh lỵ Quảng Tín để mở cuộc
hành quân qui mô gồm TĐ1, TĐ3 và TĐ4/TQLC trực thăng
vận vào mật khu núi Chàm nơi đó có sự
hiện diện của hơn một Trung Đoàn của Sư
đoàn Sao Vàng Cộng sản BV.
Cựu
Đại tá Tôn Thất Soạn lúc ấy là Trung tá
đă chỉ huy trận đánh quyết liệt
nầy. Biết được đây là căn cứ
địa của chúng, Ông yêu cầu Quân Đoàn I cho
đổ quân mỗi đợt là một Tiểu đoàn
TQLC. TĐ1 đợt đầu, TĐ3 và Bộ Chỉ
Huy của Chiến Đoàn B đổ đợt nh́
rồi tiếp đến TĐ4 sau cùng. TĐ1 đổ
ngay trên đầu địch bất ngờ, chạm súng
giết chết và bắt sống một số tù binh
Cộng sản BV. Chiến đoàn B tiếp tục
chuyển quân rất dè đặt và bung rộng đội
h́nh, lục soát truy lùng địch trong vùng đồi núi
rậm rạp hiểm trở, nhưng các cấp đều
rất an tâm tin tưởng vào tài chỉ huy của
vị Chiến đoàn trưởng này.
Sau
ba ngày hành quân thật vất vả bởi địa
thế hiểm trở, không có những cuộc đụng
độ lớn. Ngày N+3 Chiến đoàn B được
lệnh chuyển hướng tiến về tỉnh
Quảng Tín, theo đội h́nh Tiểu Đoàn 4 bung
rộng hàng ngang đi đầu, TĐ3 bên sườn
phải, sau là Bộ
Chỉ Huy Chiến Đoàn B và Tiểu đoàn 1 bảo
vệ sườn trái và hậu vệ. Hướng trước
mặt địa thế bằng phẳng với những
xóm làng, không có đồi núi, xa bên trái là sông Thu
Bồn và vùng hoạt động của Thiết Vận
Xa, bên phải là ngọn đồi dài và thoai thoải, có
nhiều tảng đá, nằm gần dăy núi lớn.
Tại
đây năm 1965, Tiểu đoàn 3 tăng phái cho Sư
Đoàn 2 Bộ binh, đơn độc làm mũi dùi
đi trước và bị địch quân phục kích
trong một xóm làng dưới chân núi. Tuy bị phục kích
bất ngờ nhưng nhờ một
nửa Tiểu-đoàn may mắn lọt ra ngoài ổ
phục kích, nên tổn thất về nhân mạng cũng
như vũ khí chỉ tương đối nặng.
Với
kinh nghiệm lần trước, lần nầy tôi xin
lệnh Thiếu Tá Nguyễn Thế Lương Tiểu
đoàn trưởng TĐ3 cho tôi điều động
Đại đội 1 và Đại đội 2 tiến
chiếm ngọn đồi bên phải để lấy
ưu thế. Tôi đă hối thúc cánh B của tôi
tiến chiếm thật nhanh để cánh A sẽ cùng
lên cho kịp thời, th́
đă chạm địch đang từ lưng đồi
tiến lên. Thật là bất ngờ, nhưng chúng tôi
phản ứng rất nhanh, dùng đủ loại vũ khí
đồng loạt tác xạ dữ dội vào toán quân
địch, đồng thời báo cho cánh A biết và
hối thúc canh A lên gấp. Với quân số đầy
đủ v́ có cánh A phụ lực, toàn lực Tiểu-đoàn
3 đă đẩy địch quân chạy vào rừng và
bị Thiếu Tá Lương gọi
Pháo binh TQLC tiêu
diệt chúng.
Trước
mặt Tiểu đoàn 4, quân CS đă nằm sẵn trong các
hầm hố kiên cố dọc
theo lũy tre khai hỏa vào Tiểu Đoàn nầy, và
xử dụng súng cối 82 và Đại bác 57 ly pháo
tối đa khắp các Tiểu Đoàn, ngỏ hầu có
thể tiêu diệt quân ta. Chiến đoàn trưởng
đă xin Không quân của Mỹ cũng như Pháo Binh TQLC
oanh tạc và pháo vào các vị trí quân địch. Đồng
thời Ông điều động Thiết vận xa
phối hợp với TĐ4/TQLC xung phong tiến chiếm xóm
làng trước mặt. Sau nhiều đợt xung
phong chiếm được bià làng, rồi lại
bị đánh bật ra, tiến và lui cho đến
chiều. Vị chiến đoàn trưởng cho lịnh TĐ4/TQLC
và chiến xa M113 quyết liệt xung phong đợt
cuối cùng, đă chiếm được mục tiêu.
Kết quả, một tên Thiếu Tá Công sản BV đầu
hàng, một số bi bắt sống nhiều xác địch
và vũ khí bỏ lại chiến trường. Trận
đánh nầy không những đă rửa hận cho TĐ3
bị lọt vào ổ phục kích năm 1965, mà là
một chiến công hiển hách
đánh bại một Trung-Đoàn của Sư đoàn
Sao Vàng BV.
Đây
là trận chạm trán lần thứ ba với cấp Trung
đoàn Cộng sản trong thời gian tôi phuc vụ
tại Tiểu Đoàn 3 TQLC. Sau trận chiến thắng
lẫy lừng nầy, Đại Tá Phạm Văn Phú (
nay là cố Thiếu Tướng, đă tự sát sau ngày
30/4/75) đă bay đến
tỉnh Quảng Tín thăm viếng Chiến đoàn B, gặp
Trung tá Soạn và nói rằng
đây
là lần đầu tiên
Thủy Quân Lục Chiến bẻ gẫy
xương sống của Sư Đoàn 3 Sao Vàng
Cộng sản BV tại căn cứ
của chúng.
Tổng
kết thiệt hại chung của Chiến đoàn B/TQLC tương
đối nhẹ, nếu ta so với một trận
chiến lớn. Riêng Tiểu đoàn 3 có 5 chiến sĩ
hy sinh và khỏang 10 chiến sĩ bị thương.
Tưởng
nhớ Hạ Sĩ I
Hồ. Người chiến sĩ truyền tin rất can
đảm.
Nay
tôi vẫn c̣n thương nhớ Hạ sĩ I Hồ, người
chiến sĩ mang máy truyền tin luôn luôn sát cánh bên tôi.
Ông bị một loạt đạn AK-47 và đă gục ngă
chết liền bên tôi tại trận Việt An năm
1965, trên vai c̣n mang chiếc máy truyền tin bể nát, bê
bết máu, không một lời than thở hay trăn
trối. Hạ sĩ I Hồ rất gan dạ và b́nh
tĩnh, dầu ở trong bất cứ t́nh huống nào, ông
luôn luôn giữ được
liên lạc truyền tin với các cấp mỗi khi lâm
trận. Tôi thầm nghĩ là ông đă đỡ đạn
cho tôi v́ lúc đó ông
mang máy truyền tin, tôi ngồi bên cạnh, đang cầm
ống liên hợp liện lạc với Tiểu Đoàn
để báo cáo t́nh h́nh. Quân địch thường hay
nhắm vào các nơi có cây
Antena
để tiêu diệt các cấp chỉ huy.
V́
hoàn cảnh chia đôi đất nước, Hạ sĩ
Nhứt Hồ đă theo
mẹ vào Nam năm 1954 và định cư ở làng Tam B́nh,
Thủ Đức. Ông đă t́nh nguyện vào Binh chủng
TQLC trước khi tôi về TĐ3 vài năm, tánh t́nh
rất hiền hậu nên được hầu hết
anh em mến thương. Ông đă hy sinh, để
lại bà mẹ già, cô vợ trẻ trong nỗi nhớ
ngàn thương và một đứa con nhỏ bơ
vơ, hoàn cảnh thật là xót xa, khốn cùng. HS/I Hồ
ra đi đă để lại cho nhiều anh em, tôi và
vợ tôi sự tiếc thương. Tôi xin ghi lại
đây vài câu thơ để tưởng nhớ đến
ông:
Tiếc
thương anh chết chiến trường
Tiếng
cha chưa gọi, con đà để tang
Anh
đi bỏ lại mẹ già
Sớm
hôm hiu quạnh, đêm ngày nhớ anh
Anh
ơi! hăy ngủ yên đi
Em
nguyền thương mẹ, nuôi con trọn đời.
TN.
Tiểu
Đoàn 3 đóng quân
ở Đà Nẵng và T́nh yêu mến lính của người
hậu phương.
Sau
trận chiến thắng lẫy lừng tại Việt An,
Quảng Tín, Tiểu đoàn 3 lại
tiếp tục lên đường tăng phái cho Sư
doàn 2 BB để hành quân khắp tỉnh Quảng Ngăi.
Xong chúng tôi trở về hậu cứ bổ sung quân
số tiếp liệu trong thời gian ngắn, rồi
lại bay ra Đà Nẵng ứng chiến chống
Phật giáo xuống đường vào giữa năm
1966. Đây là lần đầu tiên, Tiểu đoàn 3
mới được nghỉ xả hơi trong thời
gian khoảng hai tháng không hành quân, anh em tha hồ du
ngoạn thắng cảnh Thị xă Đà Nẵng và
Thừa Thiên, Huế.
Bộ
Chỉ Huy của tôi đóng quân tại một ngôi
biệt thư bỏ trống, gần chùa Phổ Đà,
đối diện nhà gia đ́nh của hai thiếu nữ
người làng Kim Long, Huế. Nơi đây mấy chú lính
của tôi đă phải nấu nhờ bếp núc bên nhà
mấy cô, mấy cô rất vui ḷng và thật t́nh
giúp đỡ. Hai cô
trạc tuổi trên đôi mươi. Cô chị là Phan
Diệu Y...làm việc ở Đài phát thanh Đà
Nẵng, có giọng hát rất hay ,cô
em là Phan Diệu L...làm việc ở Ty Công chánh Đà
Nẵng. Hai chị em đều xinh đẹp và hiền lành
, lúc nào cũng líu lo giọng
Huế, lúc trầm lúc bổng nghe thật
dễ thương. Và mỗi khi hai cô về thăm
quê ngoại ở làng Kim Long đều mang nhăn An Cựu
đến biếu tôi.
Một
hôm nh́n thấy h́nh vợ và mấy đứa con tôi, cô
Y... nói rằng: "chắc Đại úy thương vợ và
nhớ con lắm phải không?"
cô em hỏi tiếp: "có
khi nào Đại úy cảm thấy sợ tử trận
rồi bỏ vợ con lại không?" Tôi nghĩ
cô em c̣n nhỏ tuổi, đă vô t́nh hỏi một
câu như trù ẻo, làm tôi cảm thấy vui vui. Tôi
vừa cười vừa trả lời nửa đùa
nửa thật: "Mỗi người có một
cái số, nếu ra trận ai cũng chết hết
th́ lấy ai làm Tướng
để chỉ huy?" Và tôi cũng nói với mấy cô
ấy rằng: "Ước ǵ vợ tôi không gần ngày
sanh th́ đă ra đây xem danh lam thắng cảnh của
xứ thần kinh".
Rồi
từ đó hai cô có thiện cảm với chúng tôi,
Đại úy Đoàn Thức và Bác sĩ Chẩn hay đến
thăm tôi và cũng muốn tôi giới thiệu làm quen, nên
ba chúng tôi thường lui tới tṛ chuyện. (cố
Trung tá Thức đă tử bịnh sau khi ra tù, ông đă
bị đày chung với tôi tại Yên Bái).
Có một lần hai cô mời anh em chúng tôi về thăm
quê ngoại, nơi hai cô sống lúc c̣n học trường
Đồng Khánh.
Kim Long, ngôi
làng nho nhỏ nên thơ
nổi tiếng là có nhiều thiếu nữ
đẹp và diệu hiền, đến ngay cả
vua Tự Đức đa t́nh đa cảm, cầm ḷng
không đặng cũng đành phải ngỏ lời
ngự giá, sang sông:
Kim
Long có gái mỹ miều,
Trẫm
thương Trẫm nhớ Trẫm liều Trẫm đi.
Làng
Kim Long nằm cạnh ḍng sông Hương Giang và chi nhánh là
sông An Cựu, nơi đây cây ăn trái xanh tươi và
sầm uất dọc theo con đường dẫn đến
chùa Thiên Mụ. Muốn vào chùa, du khách phải bước
lên nhiều bậc thềm cũ đầy rong rêu. Ngôi chùa
cổ kính nhưng rất xinh, đối diện bên kia sông
là núi Ngự B́nh, cảnh chùa thật êm đềm bên ḍng
sông Hương nước chảy lờ đờ. Có hai
câu ca dao truyền khẩu nói lên đặc điểm
của hai địa danh nầy:
Núi
Ngự B́nh trước tṛn sau méo
Sông
An Cựu nắng đục mưa trong.
Sau
đó Tiểu đoản 3 lên đường hành quân
tại Hương-Điền, của tỉnh Thừa thiên,
Gio-Linh và Ashau thuộc tỉnh Quảng Trị. Tôi
bị thương v́ đạn
pháo, nằm mê man 3 ngày tại bịnh viện Đồn
Mang Cá ở Huế rồi được chuyển về
Quân y viện Duy Tân - Đà Nẵng. Lúc nầy hai tay và hai
chân tôi đều bị liệt, nhưng tâm trí c̣n sáng
suốt nên cảm thấy thật cô đơn, không
một người thân chăm sóc ngoài Hạ sĩ I
Liễng, về sau ông cũng tử trận. Tôi nghĩ
đến vợ sắp tới ngày sanh, rồi nhớ
đến mấy con c̣n quá nhỏ ḷng càng khổ
đau vô cùng. Hạ sĩ I Liễng đă
tự động đến nhà cô Y... báo tin tôi
bị thương lúc nào tôi không hay.V́ gia đ́nh đă
quen biết lúc chúng tôi đóng quân gần nhà, chiều hôm
ấy cô và bà mẹ vào thăm, thấy tôi thân tàn ma
dại khác hẳn cách
đây hai tháng, toàn thân tôi bất toại, hai mẹ con
mủi ḷng khóc nức nở và bà hỏi tôi: "Vợ Đại
úy có ra thăm ông không?" Câu hỏi nầy làm tôi cảm
thấy đau xót muốn rơi nước mắt, tôi
trả lời là vợ tôi gần ngày sanh nên không ra thăm
nuôi tôi được. Bà mẹ liền bảo cô Y...
mỗi chiều sau giờ nghỉ việc mang thức ăn
đến bịnh viện thăm nuôi tôi, ḷng ưu ái
nầy làm tôi cảm thấy được an ủi
phần nào, v́ lúc ḿnh ngă xuống mà không có vợ
kề bên chăm sóc.
Sau
gần một năm dưỡng bịnh tôi được
Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Tư Lệnh TQLC kiêm Tư
lệnh Quân Đoàn III, bổ nhiệm làm Quận Trưởng
Dĩ An, Biên Ḥa từ tháng 6 năm 1967.
Đêm
Chờ Sáng Và Cũng Là Đêm Cuối Cùng Chấm
Dứt Đời Binh Nghiệp 21 Năm.
Tôi
làm Quận trưởng Dĩ An đươc 7 năm,
về Đức Ḥa 1 năm rồi trở về lại
quận Dĩ An đúng một tháng trước ngày
miền Nam bị thất thủ.
T́nh
h́nh lúc nầy hết sức là căng
thẳng, Quận và Chi khu ráo riết đặt
kế hoạch pḥng thủ chống chiến xa địch.
Căn cứ pḥng thủ của Bộ Chỉ Huy Chi khu là
căn cứ cũ của lực lượng Đại Hàn
rất kiên cố, hơn nữa sau Hiệp đinh Paris
đầu năm 1973, các đơn vị Đồng Minh
sau khi rút đi đă
để lại cho chúng tôi rất nhiều vũ khí
đạn dược và gần 60 cây M72 chống
chiến xa, do Đại úy Thành Trưởng Ban 4 Chi Khu
ngoại giao xin giữ lại, nên anh em chúng tôi cũng yên
tâm. Trước ngày 30/4/75, Đại úy Thành có nhắc
nhở và đề nghị tôi cho phân phối hết
đồ quân tiếp vụ cho trại gia binh, tôi đă
chấp nhận ư kiến sáng suốt nầy, nếu chúng
tôi bị bao vây cũng có lương thực cầm
cự được một thời gian. Cựu Đai úy
Thành đă vượt biên sau khi đi tù và gia đ́nh ông
nay đang sống tai San Jose.
MỘT
QUYẾT ĐỊNH KHÓ KHĂN:
Tôi phải ở lại
đến giờ phút cuối cùng với anh em chiến sĩ
và đồng bào. T́nh h́nh tại quận c̣n rất yên
tịnh, chưa có việc ǵ xảy ra, chúng tôi chưa
bị quân Cộng sản tấn công và pháo kích, nhưng
một số chiến sĩ cũng nao núng v́ nghe tin:
chỗ nầy di tản chiến thuật chỗ kia rút quân,
người th́ mang gia đ́nh xuống tàu kẻ xuống
ghe đánh cá ra khơi, và một số người đă
được phi cơ Mỹ cho di tản từ phi trường
TSN trước đó mấy tuần. Ông bà ngoại
mấy cháu của chúng tôi sợ nguy hiểm đến tánh
mạng mấy cháu, nên mang hết về Saigon cho tôi
rảnh tay lo nhiệm vụ, phần vợ tôi th́ nhứt
quyết ở lại căn cứ để yểm
trợ tinh thần tôi, nên anh em chiến sĩ và đồng
bào cũng bớt hoang mang, lo lắng.
Một
điều nữa làm cho tôi đắn đo không thể
bỏ quận được, v́ trong 7 năm sát cánh ngày
đêm với anh em Địa Phương Quân và Nghĩa
Quân và Viên chức quận xă ấp làm việc trong t́nh
thương mến đậm đà. Các chiến sĩ
ĐPQ, NQ và Viên chức hết ḷng làm tṛn trọng trách
nên mấy năm qua t́nh h́nh Dĩ An rất yên tịnh, dân
chúng sống thanh b́nh làm ăn phát đạt.
Quân
được
Dân
thương
mến và khắng khít thật là:
t́nh
Dân với Quân như cá với nước.
Khi tôi được cấp trên đổi về
lại quận cũ, anh em chiến sĩ vui mừng
như gặp lại người anh cả đă
vắng mặt đi xa mới về, và đồng bào cũng
vui vẻ đón nhận tôi như một đứa con
biệt ly nay trở về quê cũ, nên tôi xem quận Dĩ
An như có mối t́nh thiêng liêng đối với đời
tôi. Tôi hết ḷng cám ơn những chiến sĩ và viên
chức đă cộng tác với tôi, tôi xin nghiêng ḿnh trước
những anh linh của những chiến sĩ đă hy sinh
v́ nghĩa vụ. Đến nay, tôi vẫn c̣n nhớ măi
Nghĩa quân Nguyễn Văn Giữ, người cận
vệ can đảm đă theo tôi suốt bao nhiêu năm.
Ông đă giúp, đỡ đần tôi những lần
nhảy trực thăng hay leo đồi lội suối
trong các cuộc hành quân, ông luôn bên cạnh để
bảo vệ tôi. Ông đă chết trong trại cải
tạo năm 1979 v́ bạo binh mà không có thuốc
chữa. Thỉnh thoảng chúng tôi có gởi qùa về gia
đ́nh để đền đáp công ơn ông đă giúp
tôi suốt thời gian tôi làm việc tai Dĩ An.
Tất
cả các chiến sĩ Địa Phương Quân, Nghĩa
Quân và Viên chức quận, xă, ấp đều tuân
lệnh Thượng cấp quyết ở lại cố
thủ. Nhưng đến đêm 29 rạng 30 tháng 4, chúng
tôi bị bỏ rơi chới với v́
mất liên lạc với Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu
tỉnh Biên Ḥa và không biết phải nhận lệnh
ở đâu. Đông Tây Nam Bắc chẳng c̣n ai yểm
trợ, trong khi đó một Trung đoàn Cộng sản BV
cùng chiến xa T54 đă di chuyển từ hướng Tân
Uyên tới rừng C̣ Mi phía Bắc quận Dĩ An
rồi dừng lại đấy. Chúng tôi tiến thối
lưỡng nan, thôi đành phải liều quyết tử
thủ tới đâu hay đến đó, anh em chúng tôi không
biết trông chờ vào ai, thôi đành phó mặc số
phận cho Trời định.
Thật
là
một đêm hăi hùng,
hồi hộp, tất cả từ quan tới lính súng
chống chiến xa, súng đại liên và súng cá nhân
cầm tay, thức sáng đêm chờ địch nơi pḥng
tuyến. Tiếng súng pháo binh và đại bác của
chiến xa ta và địch nổ vang dội từ hướng
Hậu Nghĩa và căn cứ
Sư đoàn 25 BB tại Củ Chi. Nh́n những ánh sáng
hỏa châu chiếu chập chờn một góc trời
ở phương Tây, và nh́n về hướng Saigon
thấy ánh đèn phi cơ trực thăng lên xuống, chúng
tôi đoán là Mỹ bốc người di tản, anh em chúng
tôi rất năo ḷng không biết vận mạng quận Dĩ
An nói riêng và vận mạng miền Nam sẽ ra sao? Mong
chờ đến sáng rồi sẽ tính. Nhưng vào
gần sáng toán quân thám thính ở tiền đồn
gọi máy báo về Bộ Chỉ Huy Chi Khu là chiến xa
địch đă đổi hướng bọc xa lộ ṿng
đai từ hướng Lái Thiêu trực chỉ Saigon.
Sáng hôm sau lúc 10 giờ, tiếng nói Đại Tướng Dương Văn Minh loan báo trên đài phát thanh Saigon ra lệnh tất cả các đơn vị buông súng đầu hàng. Cái tin sét đánh làm cho mọi người từ quan tới lính, cả trại gia binh và dân chúng đều bàng hoàng rơi lệ. Tôi liền dùng máy truyền tin thông báo cho các chiến sĩ và viên chức quận, xă, ấp hủy diệt tất cả tài liệu; hăy rời đơn vị và nhiệm sở với những lời chúc lành cùng họ và gia đ́nh, và nói vài câu giă từ trong nghẹn ngào uất hận, không cầm được nước mắt. Ngày 30/4/1975 đă chấm dứt đời Binh nghiệp của tôi đúng 21 năm, v́ ngày nhập ngũ cũa tôi cũng vào tháng 4 năm 1954./.
|
Trả Ta Sông Núi |
Chiến hữu Nguyễn Minh Châu