Après La Bataille

Mon père, ce heros au sourire si doux,
Suivi d’un seul housard qu’il amait entre tous
Pour sa grande bravoure et pour sa haute taille,
Parcourait à cheval, le soir d’une bataille,
Le champ couvert de morts sur qui tombait la nuit.
Il lui sembla dans l’ombre entendre un faible bruit.
C’etait un Espagnol de l’armée en deroute
Qui se trai^nait sanglant sur le bord de la route,
Râlant, brisé, livide, et mort plusqu’à moitíe,
Et qui disait : “ À boire ! à boire par pitíe ! “
Mon père, ému, tendit à son housard fidèle
Une gourde de rhum qui pendait à sa selle,
Et dit : “ Tiens, donne à boire à ce pauvre blessé ”
Tout à coup, au moment où le housard baissé
Se penchait vers lui, l’homme, une espèce de maure,
Saisit un pistolet qu’il étreignait encore,
Et vise au front de mon père en criant “ Caramba ! ”
Le coup passa si près que le chapeau tomba
Et que le cheval fit un écart en arrìere.
“ Donne-lui tout de même à boire “, dit mon père.

(La Légende des sìecles )

 
Sau Trận Chiến

Cha tôi, người anh-hùng có nụ cười hiền-hậu,
Chỉ một tùy-tùng mà ông yêu mến đi theo
Dáng người ông cao lớn, hiên-ngang và hùng-dũng
Ngồi trên lưng ngựa, đi trong buổi chiều chiến trận,
Qua cánh đồng đầy xác địch, lúc trời sẫm tối.
Trong bóng đêm dường như nghe văng-vẳng tiếng người.
Hắn là Tây-Ban-Nha của đoàn quân bại trận
Anh ta lê-lết bên đường toàn thân đẩm-máu,
Đang rên-siết, tả-tơi, xanh-xao và gần chết,
“ Cho nước ! cho nước ! Hắn thốt lời đau khổ van xin: ”
Cha tôi, động lòng, trao cho cận vệ trung thành
Một bình rượu rhum của ông máng trên yên ngựa,
Và nói : ” Cầm lấy, cho thương binh bất hạnh nầy uống “
Bất thình-lình, khi người tùy-tùng vừa khom xuống
Hắn ta chòm tới cha tôi, như tên hung rợ,
Chụp ngay khẩu súng lục còn mang lấy trong người ,
Nhắm vào trán cha tôi và gào-thét : “ Đồ kiếp “
Tiếng súng nổ quá gần đã làm tung chiếc nón
Và con ngựa liền nhãy vọt một bước lui sau.
” Cứ cho hắn ta uống cho tôi “ Cha tôi nói.
( Dịch đai cương theo văn xuôi).

MC