Chiến-trận Ba-Lòng
(Tiếp-ứng TÐ8/TQLC trong
chiến-dịch HQ Lam-Sơn 810)
* Viết cho Lương-văn-Của Ðại-đội F/
Khoá 23 và các Chiến-binh TÐ 9/TQLC.
LTG: Tôi thay
thế sự đàm thoại bằng mật mã ra bạch
văn để đọc giả dễ hiểu thay vì
dùng mật mã khi dùng PRC25 bảo mật về danh xưng
của đơn vị, ám danh, cấp số (Tiểu Ðoàn,Ðại
Ðội,Trung Ðội...) trong lúc hành quân.
Tân-An-Ðoàn-văn-Tịnh
Nằm
về phía Bắc của thị-xã Quảng-Trị
chừng hơn 10 cây-số là một thị-trấn không
lớn, nhưng lại vô cùng quan-trọng cả trên hai
mặt: Quân-sự và kinh-tế, đó là thị-trấn
Ðông-Hà. Ðông-Hà là một cứ-điểm tiền-đồn
lớn của miền Nam Việt-Nam, nằm trên ngã ba
của đường xuyên Việt, Quốc-lộ 1 và
Quốc-lộ 9 ngõ rẽ sang Lào.
Về quân-sự, Ðông-Hà là một hậu cứ, từ
đó yểm-trợ, tiếp-vận mọi mặt cho các
tiền-đồn biên-giới phía Bắc. Theo
Quốc-lộ 1 thẳng lên phía bắc sẽ tới
Gio-Linh với các căn-cứ C1, C2, Cồn-Thiên v..v...
ỏ phía Tây và tiến sát vào vùng phi quân-sự là các căn-cứ
A1, A2, A3, A4. Các căn-cứ hỏa -lực này yểm-trợ
và làm nơi xuất-phát cho các cuộc hành-quân của Sư-đoàn
1 BB để ngăn chặn sự xâm-nhập của quân
Bắc-Việt. Tiến thêm chừng hơn cây-số
nữa sẽ gặp cầu Hiền-Lương, chiếc
cầu lịch-sử trên giòng sông Bến-Hải, chia
cắt hai miền Nam-Bắc sau hiệp định Genève
1954. Rẽ trái về Quốc-lộ 9 sẽ tới Cùa,
Cam-Lộ, Mai-Lộc trong vùng rừng núi phía Tây-Nam với
các căn-cứ hỏa-lực Mai-Lộc, Sarte, Bá-Hộ ...
Từ
ngã ba Cùa, cứ thẳng Quốc-lộ 9 sẽ nhìn
thấy căn cứ Carol, và nằm bên kia bờ sông Ðông-Hà
là căn-cứ Fuller nằm trên đỉnh núi cao vời
vợi, trên dẫy núi non hiểm trở, nhìn xuống vùng
thung-lũng bên dưới là căn-cứ Khe-Sanh, một
địa-danh nổi tiếng trong quân-sử. Con đường
tiếp tục chạy qua Làng-Vây, từ đó vượt
qua sông Nậm-Khàng, giòng sông biên-giới phía Tây của
Việt-Lào. Trên địa-phận đất Lào có
dẫy núi đá dựng đứng như búc tường
thành gọi là rặng Koroc.
Về kinh-tế, Ðông-Hà là nơi trao đổi buôn bán
giữa hai miền Kinh-Thượng. Những người dân
sống ở đồng-bằng ven biển và những người
dân trên núi cao, trong các buôn, làng, bản, sóc, trao-đổi
nhau hàng hoá, thực-phẩm như cá tôm mắm muối
vải vóc và các dụng cụ dùng trong nhà. Còn các người
miền cao đem xuống khoai, sắn, mật ong, quế,
ngà voi, sừng tê ... và trước giao-tranh bùng nổ
lớn, chính Ðông-Hà là điểm giao-thương
quan-trọng của Việt-Lào.
Cái thị-trấn đất
đỏ, nhiều bụi bậm này vào muà hạ nóng
bức, những cơn gió thổi từ phiá Tây đem
nhiều bụi đỏ che phủ cả mái nhà cây
cỏ. Người dân nơi đây quen gọi là gió Lào,
rất nực nội khó chịu. Từ tháng chạp sang
tháng giêng, cũng những cơn gió này thổi khí
lạnh từ những dẵy núi đá xuống vùng đồng
bằng gầy guộc này, tạo nên những cơn
lạnh thấu xương, dân địa-phương
gọi những trận gió này là gió Bấc. Miền
Bắc Trung-Việt thường nói về quê-hương
nghèo khổ thiếu-thốn của mình qua hai câu thơ
sau đây:
Chiến-trận thắng bại là
lẽ thường, chỉ tội nghiệp cho binh-sĩ và
thuộc cấp của chúng ta, cho đến giờ phút này
họ mới có thể lấy lại bình-tĩnh để
biết rằng mình vẫn còn sống, đang được
đơn vị bạn tiếp đón, dù rằng giữa
vùng rừng núi trùng-điệp này. Chiến-trận và
hiểm-nguy đang tiếp tục vây quanh.
- Một, hai, ba, bốn đây Tầm-Dương. Thẩm
quyền vào máy.
- Một nhận, Hai nhận, Ba nhận, Bốn nhận.
- Cứ nằm yên bố-trí vững vàng, sẵn sàng tác
chiến, để các binh-sĩ và thuơng binh của TÐ8
di-chuyển về phiá sau và cho y-tá phụ giúp họ.
- Ðáp nhận anh Tư.
Thời gian qua nhanh, với những bận rộn đón
tiếp đơn vị bạn đang di-tản. Rừng núi
đã về chiều. Nhìn đồng hồ trên tay, bây
giờ là 4 giờ 15. Tôi nhủ thầm: “Không
sao, còn sớm, có lẽ đêm nay sẽ phải đóng
quân ở một nơi nào đó trong khu rừng này, nhưng
chắc phải cho toàn bộ thương binh và binh-sĩ
của TÐ8 về phiá sau với BCH/TД.
Bỗng tôi nghe tiếng kêu nhỏ, quen thuộc. Tôi quay
lại, ồ Ðại-úy Lộc, anh là một trong những
Ðại-đội trưởng của TÐ8. Nét mặt nghiêm-trọng
và buồn bã, Lộc thở dài và nói:
- Ðổ quân xuống là bị chúng tấn-công và pháo-kich,
cuối cùng phải tan hàng.
Tôi vỗ vai Lộc, vừa là bạn bè vừa là
chiến-hữu, tôi biết anh là một cấp chỉ-huy
trận-mạc rất gan lì và thành-công.
- Ðừng lo buồn vô ích, thắng bại là chuyện thường
tình của chiến-tranh, bạn cứ đưa con cái lui
về sau nghỉ ngơi.
Lộc chào tôi và anh di-chuyển theo thuộc cấp cùng
mấy sĩ-quan trong đơn-vị anh.
- Tầm-Dương đây Sa-Giang.
- Báo cáo anh Tư đã chạm địch.
- Nhận Năm, cho con cái tác-chiến.
- Minh-Giang đây Tầm-Dương- Thẩm quyền vào máy.
- Minh-Giang nghe Tầm-Dương.
- Sa-Giang đang chạm địch, Minh-Giang cẩn-thận
bố-trí và sẵn sàng tác-chiến.
- Ðáp nhận.
Những loạt đạn địch xông thẳng vào
giữa tuyến, chạm vào cây lá nghe chát chuá, và Trung-đội
của Sang trả đũa hùng-hậu. Cánh bên phải
của Minh cũng đang chạm địch. Với
sự bố-trí sẵn sàng và hỏa-lực mạnh mẽ,
những toán quân truy-kích của Bắc-Việt không
thể tiến tới được. Chừng nửa
giờ giao-tranh, chúng la ó rút lui, để sửa soạn
cho một trận sanh-tử về đêm.
o0o
5 Giờ 30 ngày 5 tháng 6, 1971.
- Tân-An đây Ðà-Lạt. Toàn bộ TÐ8 đã rút lui. Theo
lệnh trên, Tân-An chuẩn-bị cho con cái di chuyển
trở lại phía bờ sông. Cam-Ranh cùng Ðại-đội
2 cũng đã di chuyển về bờ sông.
- Trùng-Dương (ÐÐ4) nằm lại yểm-trợ cho
BCH/TÐ và ÐÐ3 rút lui.
- Ðáp nhận Ðà-Lạt.
Chuẩn bị xong đội hình, cho Trung-đội 3
của Lam nằm lại bố-trí giữ an-toàn cho Trung-đội
1 rút lui, kế tiếp là Trung-đội 4, BCH/ÐÐ và Trung
đội 2 di-chuyển bên trái, nhắm hướng
bờ sông tiến tới. Di-chuyển trở lại không
mấy khó khăn, nhưng bây giờ chúng tôi phải mang
theo một số binh-sĩ bị thương và thân xác
của vài quân-nhân TÐ8 tử trận, trong đó có xác
của một người đàn em, cùng xuất thân
từ Trường Võ-Bị Ðà-Lạt, tên anh là Lương-văn-Của,
Khóa 23 (mà vợ anh là con gái chủ tiệm Cà-phê Tùng
ở Ðà-Lạt).
Ngoài chiến-trận, bên cạnh chỉ có
chiến-hữu, đó là niềm vui, là tình bạn, chia
nhau những buồn vui của đời sống. Chúng tôi
không thể bỏ họ lại nơi đây, dù có
cực-nhọc, cũng cố-gắng mang theo về cho gia-đình
họ, nếu được. Do đó, sự di-chuyển
bị chậm-chạp. Có những đoạn phải bò,
phải leo núi, nên chưa tới bờ sông, trời đã
sụp tối từ lâu rồi. Nếu cố gắng
tiếp-tục thì chúng tôi cũng có thể qua sông đêm
nay, nhưng vô cùng nguy-hiểm, nên phải bố-trí quân
nằm lại để đoạn-hậu.
BCH/TÐ với hai cánh quân của Trùng-Dương
và Tân-An (ÐÐ4 và ÐÐ3), mặc dù biết rằng sẽ có
thể nguy-hiểm nếu vượt sông chậm lại vào
sáng mai. Suốt đêm không ngủ, nằm thao-thức trên
chiếc võng, mắc thực thấp giữa hai thân cây
rừng, đầu óc tôi miên man suy-nghĩ, cứ chờ
và mong trời mau sáng. Ðêm không có động-tĩnh, không
tiếng súng, không có sự tấn công nào của địch
dù nhỏ, mặc dù chúng tôi đang nằm giữa núi
rừng đông đúc địch quân. BCH của Tiểu-đoàn
phó Cam-Ranh và hai Ðại-đội cùng tất cả TÐ8/TQLC
đã qua sông khi trời nhá-nhem tối và đã tiến lên
được đỉnh núi bên kia sông, dừng quân
bố-trí để đợi cánh A sẽ sang sông ngày mai.
o0o
6 giờ sáng ngày 6 tháng 6, 1971.
Ðại-đội 3, Ðại-đội 4 và BCH/TÐ đã
sẵn sàng di-chuyển. Ðúng 7 giờ sáng, toán quân
tiền-phong của Sang đã chạm tới bờ sông.
- Cam-Ranh đây Tân-An.
- Cam-Ranh nghe.
- Thẩm-quyền cho biết điểm qua sông tốt vì
ở đây sâu quá.
- Ðúng rồi Tân-An. Hãy cho di-chuyển dọc theo sông
về phiá trái sẽ có chỗ qua dễ hơn, nước
ngang lưng thôi.
- OK, đáp nhận Cam-Ranh.
Thế núi từ trên cao đổ xuống quá dốc và
bờ sông nằm ngay dưới chân dãy núi, không có địa
thế bố-trí để yểm-trợ cho cánh quân qua sông.
Còn phiá bên kia bờ là đồng bằng lau sậy
từ mé sông tới chân núi cả cây số. Nếu địch
quân phục-kích trên triền núi thì không sao chống
cự được và rừng lau sậy bên kia sông không
thể che chắn được đạn địch,
nguy-hiểm hơn nữa là nếu chúng dùng hỏa-công thì
đòan quân sẽ bị thiêu cháy.
Là một cấp chỉ huy tác-chiến, với những năm
dài trên chiến-trường khốc-liệt, chúng tôi cũng
đã nhìn thấy địa thế quá đỗi
nguy-hiểm, song không có sự lựa chọn vì giòng sông
Ba-Lòng và dốc núi dính liền vào nhau chạy dài hàng cây
số, nên cuối cùng toán quân tiền-phong cứ lần
dọc theo dưới chân núi để tìm chỗ vượt
sông. Khúc sông này theo bản-đồ hành-quân có tên là
Ba-Lòng, (có lẽ vì nó chảy qua quận Ba-Lòng, được
thành lập dưới thời cựu Tổng-thống Ngô-đình-Diệm),
và tiếp-tục chảy về phía đồng bằng
hạ-lưu. Trước khi đổ ra Cửa-Việt,
giòng sông chảy qua thị-xã Quảng-Trị với tên là
sông Thạch-Hãn (Thạch-Hãn có nghĩa lã “Mồ hôi
đá”, có lẽ vì khí hậu khắc-nghiệt, nên
mồ hôi của núi đá cũng đổ ra thành sông chăng?)
- Ðức-Hòa đây Tầm-Dương.
- Ðức-Hoà nghe thẩm quyền.
- Ðức-Hòa cho Trung-đội 2 tiến lên sườn
nằm bố-trí, yểm-trợ cho đại-đội vượt
sông, và Hoà sẽ theo Trung-đội 1 qua sông trước.
Chúng tôi đã tới vị-trí mà chiều hôm qua, cánh B
của Cam-Ranh đã vượt sông, lúc bấy giờ là
8 giờ 25 sáng. Trung-đội 2 tiến lên ngang Trung-đội
1 và trèo lên cao trên sườn núi và chục mét để
bố-trí.
- Sa-Giang cho con cái qua sông, và khi tới bờ sông bên kia,
cố thúc anh em di-chuyển nhanh vào chân núi, trên đỉnh
đã có Cam-Ranh.
- Nhận rõ.
Thiếu-úy Sang điều-động con cái vượt sông,
con sông không lớn, bề ngang chừng hơn hai mươi
mét, ở giữa là một lườn cát nổi lên trên
mặt nước như một cái cù lao nhỏ. Lội
qua khoảng nước sâu tới thắt lưng chừng
bẩy, tám mét là tới cù lao, rồi tiếp tục
lội thêm một đoạn chừng mười mét
nữa là tới bờ sông bên kia. Bờ bên kia là bãi cát
chay dài theo bờ sông, sâu vào trong chừng hai muơi mét là
rừng lau sậy. Trung-đội 1 qua sông an-toàn với
Trung-úy Ðại-đội phó Ðỗ-đức-Hòa và
Thiếu-úy Sang, di-chuyển về phía chân núi cách bờ sông
chừng bẩy, tám trăm mét. Tiếp tục là Trung
đội 4 của Nam và theo sau là BCH/ÐÐ rồi tới
Trung-đội 3 của Thiếu-úy Hồ-viết-Lam. Tôi
đứng bên bờ gọi cho Minh-Giang chuẩn-bị cho
con cái vượt sông. Gần ba trung-đội đã qua sông
an-toàn, chỉ còn lại một tiểu-đội của
Trung-đội 3, BCH/ÐÐ và Trung-đội 2.
Tôi nghĩ có thể đã an-toàn và tôi nhét bản-đồ
vào túi aó trận rồi cùng hai nhân viên truyền-tin và toán
Ðề-lô pháo-binh tiếp-tục lội qua sông.
Hạ-sĩ Trần-văn-Ba là nhân-viên truyền-tin
của Ðại-đội gọi máy báo cáo lên Tiểu-đòan
là ba đứa con đầu đã qua sông an-toàn. Khi BCH ra
tới cù lao nhỏ giữa sông, tôi nhìn lại đằng
sau, đã thấy Trung-đội 2 cho con cái tiến
tới bờ sông rồi. Tôi yên-tâm và tiếp tục bước
về phía trước.
Trong giây phút bất ngờ đó, hàng loạt tiếng
nổ của B40, B41 từ trên sườn núi cao phóng
xuống giữa cù-lao và bên bờ sông, và hàng loạt
đạn nhỏ bay tới. Với phản-ứng
tự-nhiên, tôi đè Hạ-sĩ Ba và Binh nhất Hường
xuống dưới mặt nước, và tôi cũng
hụp xuống và lặn qua sông. Tới bờ sông bên kia,
tôi chạy nhanh lên bờ, ẩn sau bụi cây bần cách
bờ nước chừng mưới mét. Hường cũng
chạy lên được nằm xuống bên tôi. Còn Ba thì
khi lên tới bờ cát, bị đạn địch xuyên
qua mông, té nằm trên bãi cát. Ba cố gượng đau,
bò tiếp tục vào dẫy cây bần. Người sĩ-quan
đề-lô pháo-binh tên Loan và và nhân-viên truyền-tin
của anh chạy dến núp vào bờ sậy phía sau.
Nhìn ra giữa sông, Thiếu-úy
Minh đang đứng trên cồn cát cùng với Trung-sĩ
1 Cảnh, trung-đội phó, và dưới chân anh
thấy một vài binh-sĩ bị thương. Minh ra
lệnh cho các tiểu đội sau lưng anh dừng
lại và chuyển đội hình hàng ngang, tấn công ngược
lên sườn núi. Trung-sĩ Tiểu-đội trưởng
Nguyễn-văn-Còn và Trung-sĩ Lê-văn-Thọ đốc-thúc
binh-sĩ leo lên, tiến chiếm sườn núi.
Hỏa-lực của địch từ trên cao dồn
tới-tấp vào vào điểm vượt sông và sườn
núi phía dưới. Thực vô cùng khó khăn cho Trung-đội
2 ẩn-nấp và bắn trả. Một quả đạn B40
dội sát bên cồn cát gần Trung-sĩ 1 Cảnh, anh
bị trúng thương nặng, té ngược về phía
sau, phân nửa người trên cù lao, và đầu
gục trên mặt nước. Thiếu-uý Minh bị
một viên đạn xuyên qua vế, anh khuỵu xuống
trên mặt cát ướt, đưa tay ra hiệu cho tôi
biết là anh đã trúng đạn. Tôi hét lớn:
- Cố-gắng lên Minh, xuống sông nhanh lên.
Nhưng khi Minh cố đứng lên, một phát đạn
thứ hai trổ từ sau lưng anh bên vai phải ra phiá
trước. Minh té xuống lần nữa, anh chống tay
ngồi dậy, trong khoảng cách chừng gần 30 mét, tôi
thấy nét mặt của Minh trầm-tĩnh vô cùng. Anh nhìn
về phía chúng tôi và lắc đầu. Anh cố
đưa bàn tay trái lên vẫy, nhưng có lẽ quá đau
đớn, nên không đưa lên cao được để
chào lần vĩnh-biệt, còn tay phải anh trở nòng súng
Colt 45 vào thái-dương và bóp cò.
Giữa muông ngàn tiếng súng nổ của địch và
của những thuộc cấp của anh, tôi, chúng tôi
vẫn nghe rõ ràng tiếng súng của anh tự
kết-liễu đời mình. Anh biết rằng anh khó
sống nổi vì quá dau đớn và có thể vì sự
sống của anh sẽ khiến nhiều chiến-hữu
khác bỏ mạng để cứu anh. Minh chia tay với tôi
giữa giòng sông định-mệnh. Thân xác bật
ngửa, nằm trên cồn cát, chiếc nón sắt rớt
bên cạnh. Máu của anh, của Cảnh, và các thuộc
cấp hòa vào giòng nước trong xanh, tạo nên một
mầu đỏ đặc-biệt, mầu của
chiến-tranh, tang-tóc.
Trước mắt tôi, Minh có
một đời sống vô cùng kín-đáo, chịu đựng.
Lúc chỉ-huy tác-chiến, khi vui chơi nơi
phố-thị, bao giờ anh cũng bình-tĩnh, ít nói và cương-quyết.
Ðược biết, anh sống và lớn lên trong một
gia-đình rất giầu có ở Saigon. Cuộc đời
học-sinh, sinh-viên của anh đáng ra phải được
trọn vẹn. Song không hiểu làm sao Minh đã chọn
nghiệp Lính. Sau khi xuất thân khoá 4/68 Trường Võ-khoa
Thủ-Ðức, Minh đã xin gia-nhập vào binh-chủng
TQLC. Anh rất hãnh-diện với mầu áo rằn sóng
biển, và anh cũng đã diễn tả niềm hãnh-diện
của anh khi về với ÐÐ3/TÐ9/TQLC. Trong một bữa
ăn ở gia-đình anh tổ-chức cho các SQ của
ÐÐ3/TÐ9, khi giới thiệu tôi với gia-đình anh như
sau:
“Mẹ
và các em, đây là Trung-úy Ðoàn-văn-Tịnh, Ðại-đội
trưởng của con. Trong chiến-trận, anh là một
chiến binh đảm-lược, còn về thành-phố
thì bay-bướm hết xẩy.”
Lời giới-thiệu đó khiến tôi mắc cở
đến muốn chui xuống đất để
trốn.
Trong giây phút đó, tôi cùng Hường và Ba chỉ
chỉ kịp kêu ồ lên một tiếng, vừa đau
khổ, vừa xúc-động, tôi đập tay xuống cát,
rên xiết và nước mắt chẩy dài. Ngoài tình
đồng-đội, tình thuộc-cấp, Minh còn là người
bạn, người em thân-thiết của tôi.
- Tân-An, Tân-An đây Ðà-Lạt.
- Tôi nghe Ðại-Bàng.
- Cho biết tình-hình.
- Trình Ðà-Lạt, Trung đội 2 đang chiến-đấu
bên kia sông, nhưng Thiếu-úy Trung-đội trưởng
Ðặng-ngọc-Minh và Trung-sĩ 1 Nguyễn-văn-Cảnh
đã tử trận trên gò đất nổi giữa sông,
chưa lấy xác được.
- Nhận được. Tôi sẽ cho ÐÐ4 đánh lên sườn
dốc cao giải-toả cho Tân-An.
Và Ðại-đội 4 của Trung-úy Nguyễn-minh-Trí
được điều-động tiến đánh lên
sườn núi. Trận-chiến trở nên
khốc-liệt hơn vì hướng tiến quân của
Trí không thận-lợi vì lực-lượng của địch
đông-đảo và bố-trí từ trên cao điểm.
- Tân-An đây Cam-Ranh.
- Tôi nghe Cam-Ranh.
- Tân-An có cần kêu PB vào đâu không?
- Tôi đang nằm cách bờ sông có mười mét, trước
mặt là giòng sông, chung quanh là cát trống, nhúc nhích là
chúng tác-xạ ngay. Cam-Ranh kêu pháo yểm-trợ cho Trùng-Dương
đi.
Tôi muốn ở lại nơi này để tìm cách
đưa phần còn lại của Trung-đội 2 qua sông
cùng lấy xác của Minh và Cảnh và vài binh-sĩ
nằm chết trên gò đất giữa sông. Nằm bên
cạnh giòng sông mà khát nước gần chết. B1 Hường
muốn bò xuống lấy nước, tôi bảo hắn:
- Nó lượm mày ngay đó Hường. Ðào sâu
xuống nữa là có nước.
Hường lại dùng nón sắt đào sâu thêm hố,
may mắn thay chỉ chừng ba tấc thôi là đã
thấy nước. Ðịch quân vẫn theo dõi và cũng
biết là chúng tôi chưa rời được bụi
bần này, nên thỉnh-thoảng chúng đẩy vào vài
quả B40 nhưng không trúng đích. Hạ-sĩ Ba,
biệt danh là Ba lùn, cố nhịn đau, lấy nón
sắt móc dần thành cái hố cá-nhân an-toàn.
o0o
5 giờ chiều ngày 6 tháng 6, 1971.
- Tân-An, Tân-An đây Phu-Nhân.
- Tân-An nghe Ðại-Bàng.
- Tôi sẽ cho Air đánh, Tân-An điều-chỉnh nghe.
- Phu-Nhân đánh vào đâu vậy?
- Sát bờ nước bên kia sông.
Mấy Tiểu-đội của Trung-đội 2, đã rút
lui dọc theo bờ sông về phiá sau, và nhập vào
với BCH/Tiểu-đoàn, có lẽ đã qua sông an-toàn.
- Ðáp nhận Phu-Nhân.
Chưa đầy năm phút sau, phi-đội F105 đã lượn
tới, dộng xuống hai quả Napal. Hai tiếng nổ
long trời, một quả day dọc theo sườn núi, còn
một quả cầy dài trên mặt nước. Khói
lửa văng ra, vừa nóng vừa sức nóng, và sức
ép của quả bom, ba thầy trò tôi chút nữa chết
cháy.
- Phu-Nhân đây Tân-An.
- Phu-Nhân nghe.
- Xin ngưng đánh vào bờ sông, nguy-hiểm lắm. Yêu
cầu cho đánh cao lên trên sườn núi và sau đó
dập cả PB nũa. ÐÐ4/TÐ9 đã rút rồi.
- Phu-Nhân đáp-nhận.
Sau gần hai giờ tiến quân, ÐÐ4/TÐ9 chiếm
được một phần sườn núi và đỉnh
nhỏ, song quân Bắc-Việt phản công và Ðại-đội
4 đã bị tổn-thất khá nặng và lùi dần. Trên
máy truyền-tin tôi đã nghe Ðà-Lạt và Cam-Ranh cho pháo-binh
dập xuống vị-trí giao-chiến.
- Ðức-Hoà đây Tầm-Dương.
- Nghe Tầm-Dương.
- Trời sắp tối rồi, Ðức-Hòa cho các Trung
đội bố-trí và cho một Trung-đội theo
đường cũ trở lại chỗ hồi sáng vượt
sông để đem xác Minh và Của về.
- Nhận Năm.
- Trùng-Dương (ÐÐ4) đây Tân-An.
- Ở đâu vậy?
- Ở một bụi cây sát bờ nước, chỗ BCH/TÐ
vượt sông.
- Qua sông đi Trùng-Dương, trời tối chắc an-toàn.
Trong máy tôi nghe hơi thở dồn dập của Trí,
chắc anh đang hồi-hộp.
- Không, chưa được, hơn nữa để coi các
con cái như thế nào đã.
- Ðáp-nhận.
Khoảng một giờ sau, Hoà trở lại bên bờ sông
đằng sau lưng chúng tôi và gọi:
- Tầm-Dương đây Ðức-Hòa.
- Nghe đây Ðức-Hòa.
- Ở đây có mấy cái xác trong Poncho của TÐ8.
- Tốt, cho di-chuyển về sau chân núi.
- Còn Minh và Cảnh đâu anh Tư?
- Ðang nằm giữa sông, tối quá, không thấy
được nữa. Hoà và một tiểu-đội bò
đến rặng bần. Sau khi hội ý, họ bò ra
bờ sông, lội ra giữa cồn cát để tìm xác
Minh và Cảnh.
Nước đã dâng cao, thủy-triều đã cuốn
trôi mất mấy xác, trong đó có xác của Cảnh,
chỉ còn lại xác của Minh và mấy anh em nằm trên
cao, nên đã không bị nước cuốn trôi. Hoà cho
đem hết lên sau bụi bần và gói vào Poncho.
Khoảng 10 giờ đêm, tất cả xong xuôi và chúng tôi
dìu dắt nhau di-chuyển lần về phiá núi. Mệt
mỏi và đói khát suốt ngày, chúng tôi không còn
sức để leo lên đỉnh núi bên kia. Chúng tôi
ngồi dọc một hàng trên dốc núi, sau khi uống nước
do Ðại-đội 2 tiếp-tế, chúng tôi ngủ quên
tại sườn núi cheo leo. Bên tai tôi còn văng vẳng
tiếng nói của Phán Mập, người Ðại-đội
phó ÐÐ2:
- Anh Tư ăn tí thịt ba-lát cho đỡ đói nghe!
Hình như tôi đã lắc đầu và thiếp dần
vào cơn ngủ mệt mỏi.